Từ thứ năm đến chủ nhật Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đến thăm Klagenfurt
,Ông là nhà lãnh đạo Phật giáo Tây Tạng, Carinthia. Các sự kiện và bài giảng của ông được rất nhiều người quan tâm. Ông cũng được bảo vệ bởi một đội ngũ lớn của lực lượng an ninh.
Đức Đạt Lai Lạt Ma họp vào thứ Năm cho chuyến thăm dài nhất của ông đến Áo tại Klagenfurt. Trong thời hạn 11 ngày, Đức Đạt Lai Lạt Ma tổ chức các bài giảng và hội nghị chuyên đề ở Klagenfurt, Salzburg và Vienna. Ông đi từ Maribor Tiếng Slovenia (Maribor) bằng một máy bay trực thăng và tiếp tục cho đến chủ nhật trong Carinthia.
Bắt đầu với một chuyến viếng thăm Mountain Chalet
Thứ Năm đầu buổi chiều, Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ đến sân bay Klagenfurt. Sau đó, cuộc hành trình vẫn tiếp tục đến ngôi nhà của người bạn quá cố của ông, Heinrich Harrer. Đức Đạt Lai Lạt Ma muốn cảm ơn cho sự hỗ trợ của Trung tâm Tây Tạng, phát ngôn viên Wilfried Pesentheiner.
Geshe Tenzin Dhargye, hiệu trưởng và giám đốc của Trung tâm Tây Tạng,
gọi trước chuyến thăm của Đức Đạt Lai Lạt Ma trên thực tế là Trung
Quốc phải ngăn chặn các hành vi vi phạm các quyền con người. Ông kêu gọi những người Áo cho sự hỗ trợ với người Tây Tạng.
Ngày thứ sáu và thứ bảy có một cuộc hội thảo hai ngày được tổ chức tại Hội trường 1 ở Klagenfurt. Mà sẽ lên đến đỉnh cao vào ngày Chủ nhật của bài giảng của Đức Đạt Lai Lạt Ma "Nghệ thuật của Hạnh phúc". 4800 chỗ ngồi được dành riêng cho họ trong hội trường .
Trong
một cuộc phỏng vấn cho các tờ báo Anh "Sunday Telegraph" của Đức Đạt Lai
Lạt Ma công khai nói về âm mưu ám sát có thể xảy ra. Đã có dấu hiệu cho thấy các đại lý Trung Quốc - đặc biệt là phụ nữ -
"xe lửa" sẽ cố để chạm vào ông lấy phước lành để
gây thiệt hại bởi chất độc trên tóc và khăn quàng cổ.
Cho dù các bằng chứng thực sự đúng, các nhà lãnh đạo tôn giáo không thể khẳng định một trăm phần trăm. Những nỗ lực của Trung Quốc để đầu độc ông, đã có được trong năm qua, báo cáo "Sunday Telegraph"
Đảm bảo an ninh cao
|
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đến thăm Carinthia, Salzburg và Vienna (© Reuters) |
76
tuổi, người chiến thắng giải Nobel Hòa bình sống dưới sự bảo vệ cao
trong một ngôi chùa ở Dharamsala trong dãy Hy Mã Lạp Sơn. Trong chuyến thăm của ông đến Áo, Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ được bảo vệ cá nhân liên tục. Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ cư trú tại Sea Hotel Park ở Klagenfurt. Khu vực tư nhân được bảo vệ hoàn toàn.
Từ khi đến sân bay Klagenfurt, Đức Đạt Lai Lạt Ma được bảo hộ cá nhân.
Các cảnh sát Carinthian hiện đang phải làm để hoàn thành với GTI đáp
ứng tất cả sự hỗ trợ từ các tiểu bang khác. Tại lối vào các nhân viên fairground của một công ty an ninh tư nhân sẽ thực hiện kiểm tra danh tính nghiêm ngặt.
Văn phòng Nhà nước về bảo hộ của Hiến pháp được dựa trên cơ sở không có mối
đe dọa đặc biệt đối với các nhà lãnh đạo Phật giáo Tây Tạng, được bảo vệ
ngay cả khi nổi lên bạo loạn trong những ngày gần đây, tin đồn về một cuộc tấn
công độc kế hoạch của chính phủ ở Bắc Kinh.
Các biện pháp an ninh đã mở rộng trước những tin đồn gần
đây, ông Wilfried Pesentheiner: "Tôi hy vọng rằng nhiều người vẫn còn
có cơ hội để xem Đức Đạt Lai Lạt Ma."
Sau bữa ăn trưa ngày Chủ Nhật, tiếp nhận chính thức trong nước cùng với Seefels chuyến đi được lên kế hoạch tại Wörthersee . Sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời khỏi Carinthia trong sự chỉ đạo của Salzburg. 45.000 euro là hỗ trợ của nhà nước trong chuyến thăm của Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Kế hoạch cho cuộc họp với Faymann
Vào ngày 21/05 Đức Đạt Lai Lạt Ma đi (Tenzin Gyatso), và sau đó đến Salzburg Vienna, nơi mà vào ngày 25 và 26 /05 ngày chính thức.
Chancellor Werner Faymann (SPO) đã gia nhập lực lượng với Đức Hồng Y
Christoph Schonborn gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma, phó thủ tướng Michael
Spindelegger (OVP) đang có kế hoạch cho một cuộc họp.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đến Salzburg
Đức Đạt
Lai Lạt Ma sẽ đến vào chủ nhật vào 15 giờ bằng một chiếc máy bay
từ Carinthia và Salzburg Airport sẽ được chào đón tại khu vực sân bay
của Thống đốc Gabi Burgstaller.
Vào buổi tối, ông sẽ thảo luận về "Talk trong Hangar-7" từ ServusTV với
nhạc sĩ Hubert von Goisern và các nhà thần học Paul Zulehner về hòa
bình và nhân quyền.
Vào sáng thứ Hai, ông có bài giảng tại các Arena Salzburg về "hòa bình
thế giới và trách nhiệm toàn cầu" để nói chuyện và trong 1 cuộc hội
thoại tiếp theo với Michael Kerbler (ORF đài phát thanh) và Alexandra
Föderl-Schmid (Tiêu chuẩn) cho thấy cách mà ngày nay thế giới có thể
hòa bình hơn . Các bài giảng được tổ chức bởi Trung tâm Tây Tạng trong hợp tác với các sáng kiến "Alpine Hòa bình Crossing".
Vào chiều thứ hai trong Arena Salzburg là một cuộc đối thoại giữa các
tôn giáo trên các chủ đề "Hài hòa trong đa dạng" trên sân khấu.
Tham gia trong các hợp tác-do các trường Đại học Salzburg thực hiện,
ngoài Đức Đạt Lai Lạt Ma và các Đức Tổng Giám mục Salzburg Alois Kothgasser
các tổng giám mục của Giáo Phận của Giáo Hội Salzburg / Tyrol Tin Lành,
Louise Mueller, cũng như cộng đồng giáo sĩ Shlomo quản của các cộng đồng
tôn giáo Do Thái của Vienna và chủ tịch của Hồi giáo Đức tin cộng đồng
tổ chức
Các ngày khác trong Salzburg Old Town hoặc lịch trình của Ông hiện vẫn chưa biết.
Tuệ ngữ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14
Phỏng vấn Đức Đạt Lai Lạt Ma 14
Bài do ký giả John Avedon phỏng vấn
Thích Nguyên Tạng dịch
Lời người dịch:
Đức Đạt Lai Lạt Ma 14, tên thật là Tenzin Gyatso, là một
nhà lãnh đạo thế quyền và giáo quyền của nhân dân Tây Tạng.
Ngài chào đời tại làng Taktser, vùng Đông Bắc Tây Tạng vào
ngày 6 tháng 7 năm 1935 (Ất Hợi) trong một gia đình nông dân.
Ngài được thừa nhận là Dalai Lama vào năm 2 tuổi theo truyền
thống Tây Tạng như là hóa thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ
13. Ngài được tấn phong tước vị Dalai Lama vào ngày 22 tháng
2 năm 1940 tại Lhasa, thủ đô của Tây Tạng, chính thức là
người lãnh đạo chính trị và tôn giáo cho 6 triệu người Tây
Tạng. Tuy nhiên ngài đã thừa kế tước vị Dalai Lama trong một
giai đoạn bấp bênh nhất của toàn bộ lịch sử với danh hiệu
cao quý này, vì Trung Cộng đã xâm chiếm Tây Tạng và ngài đã
đến tỵ nạn ở tiểu bang Dharamsala, miền Bắc nước Ấn Ðộ từ
năm 1959. Từ đó, ngài đã ủng hộ triệt để cho chính sách bất
bạo động, ngay cả những lúc đối đầu với những cuộc tấn công
khủng khiếp nhất. Chính vì thế mà năm 1989, ngài được trao
giải thưởng Nobel về hòa bình. Hiện nay, cũng trong thân
phận người tỵ nạn, ngài thường xuyên đi đến nhiều miền đất
trên thế giới để kêu gọi hòa bình, để rồi khi có thể, ngài
nói lên tiếng nói tự do giải phóng cho dân tộc Tây Tạng. Từ
ngày 6 đến ngày 16 tháng 6 năm 2007 , Đức Đạt Lai Lạt Ma đã viếng thăm Úc Châu, đây là chuyến thăm Úc lần thứ năm của
Ngài để giảng dạy Phật Pháp. Dưới đây là bài phỏng vấn của John
Avedon, một ký giả người Mỹ của tạp chí New York Time, sẽ
giúp quý độc giả biết thêm về cuộc đời của vị Phật vương này,
bài phỏng vấn này được thực hiện vào năm 1989 sau khi ngài
lãnh giải thưởng Nobel về hòa bình.
John Avedon: Khi được công nhận là Đạt Lai Lạt Ma,
cảm giác đầu tiên của ngài là gì? Ngài thấy điều gì xảy ra
cho mình?
Dalai Lama: Tôi rất hạnh phúc. Tôi rất thích sự kiện
này. Trước khi người ta tìm tôi, tôi đã thường nói với mẹ
tôi rằng tôi sẽ đi tới Lhasa (thủ đô của Tây Tạng). Tôi
thường ngồi thả chân ở hai bên bậu cửa sổ, làm ra vẻ như
đang cưỡi ngựa đến Lhasa. Lúc đó tôi còn rất nhỏ, nhưng tôi
nhớ rõ chuyện này. Tôi muốn đi về Lhasa. Một chuyện khác mà
tôi đã không nói trong tập tự truyện (in lần đầu tiên năm
1961), là sau khi tôi ra đời, có hai con quạ bay đến đậu
trên mái nhà chúng tôi. Chúng đến vào mỗi buổi sáng, đậu ở
đó một lúc rồi bay đi. Điều này rất đáng chú ý, vì đã có
những hiện tượng tương tự xảy ra trong thời gian mới chào
đời của các vị Đạt Lai Lạt Ma thứ nhất, thứ bảy, thứ tám và
thứ mười hai. Sau khi các vị đó ra đời, có hai con quạ bay
đến đậu ở trước nhà. Trong trường hợp của tôi, lúc đầu không
có ai để ý, nhưng mới đây, khoảng ba năm trước, khi tôi nói
chuyện với mẹ tôi, bà đã nhớ lại chuyện này. Bà đã nhìn thấy
hai con quạ bay tới đậu trước nhà vào mỗi sáng sớm và một
lúc lâu chúng lại bay đi. Buổi tối sau khi đức Đạt Lai Lạt
Ma thứ nhất ra đời, bọn cướp đột nhập vào nhà gia đình ngài.
Cha mẹ ngài bỏ chạy để lại đứa trẻ. Ngày hôm sau, khi trở về
nhà, họ tìm thấy em bé ở trong một góc nhà, có một con quạ
đứng trước nhà để bảo vệ. Về sau, khi Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ
nhất lớn lên và tu tập có kết quả, trong lúc thiền quán,
ngài tiếp xúc trực tiếp với các vị thần hộ pháp Mahakala (Đại
Hắc Thiên). Lúc đó ngài Mahakala đã nói rằng “Một người
như ngài đang làm công việc hoằng dương Phật pháp, cần phải
có một vị bảo hộ như
tôi. Ngay trong ngày ngài ra đời, tôi đã bảo hộ ngài”
(somebody like you who is upholding the Buddhist teaching
needs a protector like me. Right on the day of your birth, I
helped you). Như vậy chúng ta thấy rõ ràng có sự liên
quan giữa Mahakala, những con quạ và các vị Đạt Lai Lạt Ma.
Một chuyện nữa xảy ra mà mẹ tôi nhớ rất rõ là ngay sau khi
tôi đến Lhasa, tôi đã nói rằng răng của tôi ở trong một
chiếc hộp ở trong tòa nhà nào đó ở cung điện mùa hè
Norbulingka. Khi họ mở chiếc hộp đó ra, bộ răng của vị Đạt
Lai lạt Ma thứ 13 đang nằm ở đó. Tôi đã chỉ vào cái hộp và
nói rằng răng của ta đấy, nhưng bây giờ thì tôi không còn
nhớ gì về chuyện đó cả. Những ký ức mới của thể xác này mạnh
hơn. Quá khứ đã trở nên mờ nhạt hơn, tôi không nhớ gì cả trừ
khi đặc biệt ra sức gợi lại một ký ức như thế.
John Avedon: Ngài có nhớ lúc được sinh ra hay
trạng thái ở trong bào thai trước đó không?
Dalai Lama: Tôi không nhớ lúc đó. Khi còn nhỏ tôi
cũng không nhớ gì. Nhưng hình như có một dấu hiệu nhỏ bên
ngoài. Trẻ sơ sinh thường ra đời với hai mắt nhắm, còn tôi
thì ra đời với hai mắt mở, có thể điều này cho thấy chút ít
trạng thái tâm trí tỉnh thức trong bào thai.
John Avedon: Lúc còn nhỏ ngài nghĩ gì về việc mình
được những người lớn đối xử như một nhân vật quan trọng?
Ngài có lo sợ vì sự kính trọng như vậy không?
Dalai Lama: Người Tây Tạng là một dân tộc thực tế,
những người Tây Tạng lớn tuổi không bao giờ đối xử với tôi
như vậy. Tôi cũng rất tự tin. Trên đường đi đến Lhasa lần
đầu tiên, ở vùng đồng bằng Debuthang, vị Bốc Sư Nechung tới
để chứng thực thêm tôi là người được chọn đúng. Đi cùng với
vị này là một “geshay” già, rất được kính trọng và đã đạt
chứng ngộ cao ở Trường Loseling của Tu Viện Drepung. Vị tiến
sĩ này rất quan tâm đến việc tôi có phải đúng là người cần
phải tìm hay không. Phạm sai lầm trong việc tìm vị Đạt Lai
Lạt Ma là điều nguy hiểm. Vị này là một tăng sĩ nhưng không
phải là một viên chức của chính phủ. Ông ấy đi vào lều nơi
tôi có mặt với một nhóm người tới thăm, và xác quyết rằng
tôi đúng là người cần tìm. Như vậy, dù có một số người già
nghiêm khắc, muốn sự việc phải chắc chắn, tôi cũng đã hành
xử tốt và đã chinh phục được họ (cười). Tôi không bao giờ
cảm thấy khó chịu trong vị trí của mình.
John Avedon: Khoảng giữa năm mười sáu tuổi đến
mười tám tuổi, sau khi nắm quyền lực chính trị thế tục, ngài
có thay đổi gì không?
Dalai Lama: Có, tôi đã thay đổi một chút. Tôi đã trải
qua nhiều hạnh phúc cũng như đau buồn. Từ sự trưởng thành
của cuộc sống, từ những vấn đề nảy sinh để có thêm kinh
nghiêm, tôi đã thay đổi. Kết quả là con người mà ông đang
thấy bây giờ (cười).
John Avedon: Khi vừa tới tuổi trưởng thành ngài có
tâm trạng như thế nào? Nhiều người trải qua một thời kỳ khó
khăn khi nhận thấy mình đã là một người lớn. Điều này có xảy
ra với ngài không?
Dalai Lama: Không, cuộc đời của tôi trôi đi một cách
đều đặn. Tôi học hai buổi mỗi ngày, còn những lúc khác thì
chơi đùa (cười). Đến năm mười ba tuổi, tôi bắt đầu
học triết học, pháp số, tranh luận, và thư pháp. Tôi học
nhiều hơn trước. Tất cả đều là những việc hằng ngày và dần
dần tôi cũng quen với những việc này. Có khi tôi được nghỉ
hè. Những kỳ nghỉ này rất dễ chịu, hạnh phúc. Anh của tôi,
Losang Samten luôn ở trường học nhưng trong những thời gian
đó anh cũng tới thăm tôi. Cũng có khi mẹ tôi mang loại bánh
mì đặc biệt ở quê hương, tỉnh Amdo, đến cho tôi. Bánh này
rất dày và ngon, do mẹ tôi tự tay làm.
John Avedon: Khi trưởng thành ngài có dịp nào gặp
cha của ngài hay không?
Dalai Lama: Cha tôi qua đời năm tôi mười ba tuổi.
John Avedon: Có vị tiền nhiệm nào ngài đặc biệt
chú ý hay có một sự liên quan riêng nào đến ngài không?
Dalai Lama: Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba. Ngài đã
cải tiến nhiều những tiêu chuẩn học ở các Phật học viện.
Ngài khuyến khích rất nhiều những học sinh thành tâm. Ngài
ngăn cản những người thiếu năng lực mà lại muốn tiến thân
trong tăng đoàn, muốn trở thành sư trưởng hay những mục tiêu
khác. Về phương diện này ngài rất nghiêm khắc. Ngài cũng làm
lễ truyền giới cho mấy chục ngàn tăng sĩ. Đó là hai thành
tựu tôn giáo chính yếu của đời ngài. Ngài không ban nhiều lễ
truyền pháp, cũng không thuyết pháp nhiều. Đối với đất nước
thì ngài đã có những tư tưởng lớn và đã quan tâm và cải cách
về hành chánh, đặc biệt là đối với những vùng ở xa, làm sao
để công việc hành chánh ở những nơi đó được tốt. Ngài rất
chú trọng tới việc điều hành chính phủ một cách có hiệu quả
hơn. Ngài còn chú ý nhiều điều tương tự.
John Avedon: Trong cuộc đời ngài những bài học
riêng hay những thách thức nội tâm lớn nhất của ngài là gì?
Những chứng nghiệm nào có ảnh hưởng nhiều nhất đến sự phát
triển cá nhân của ngài?
Dalai Lama: Về chứng nghiệm tâm linh thì tôi có một
sự chứng ngộ tánh không (sunya/emptiness) nào đó, một thứ
cảm giác, chứng nghiệm, và phần lớn là bồ đề tâm, từ bi.
Điều này giúp nhiều điều cho tôi. Có thể nói rằng nó đã làm
cho tôi trở thành một con người mới. Tôi vẫn đang tiến xa
hơn, đang cố gắng. Nó giúp tôi có thêm sức mạnh nội tâm, có
can đảm và dễ chấp nhận hoàn cảnh hơn. Đó là một trong những
kinh nghiệm lớn nhất của tôi.
John Avedon: Về mặt bồ đề tâm thì ngài đang nói
đến sự tiến bộ thêm về chứng ngộ hay ngài muốn nói đến nhân
tố liên quan nào đó ở bên ngoài?
Dalai Lama:
Chính yếu là về sự tu tập bên trong. Cũng có thể có những
nguyên nhân hay hoàn cảnh bên ngoài. Những nhân tố bên ngoài
có thể đã đóng góp một phần trong việc gây dựng một cảm giác
nào đó về bồ đề tâm. Nhưng chính yếu là từ sự tu tập nội tâm.
John Avedon:
Ngài có thể kể ra một khoảnh khắc đặc biệt nào đó trong
quá trình tu tập của mình không?
Dalai Lama: Về
thuyết tánh không, thuyết tánh không trước tiên, rồi cảm
giác bồ đề tâm… vào khoảng 1965 hay 1966, trong khoảng thời
gian đó. Đây thực sự là chuyện riêng tư. Đối với một hành giả
chân chính thì những điều này phải được giữ kín.
John Avedon:
Vâng, sẽ không đề cập về những chứng nghiệm sâu xa nhất của
ngài, nhưng còn những sự kiện trong đời ngài; những sự kiện
này đã có ảnh hưởng như thế nào đối với ngài trong việc hình
thành nhân cách? Ngài đã trưởng thành như thế nào qua những
kinh nghiệm này?
Dalai Lama:
Trưởng thành như một người lưu vong là điều hữu ích. Tôi sống
gần với thực tế hơn. Hồi tôi còn ở Tây Tạng với tư cách một
vị Đạt Lai Lạt Ma, tôi đã cố gắng sống một cách thực tế,
nhưng phần nào vì hoàn cảnh nên đã có một khoảng cách nhất định
giữa tôi và đời sống bên ngoài, tôi có phần bị cô lập với thực
tại. Và rồi khi trở thành một người tị nạn, một người mất nước,
đó lại là cơ hội tốt để tôi có thêm kinh nghiệm, và nó cũng
giúp tôi có thêm lòng cương quyết hay sức mạnh nội tâm.
John Avedon:
Khi trở thành người tị nạn, điều gì đã giúp ngài có được
sức mạnh này? Có phải là việc mất địa vị và tổ quốc của ngài
chăng?Hay là sự kiện dân chúng thống khổ xung quanh ngài?
Ngài có được yêu cầu lãnh đạo nhân dân của ngài theo một đường
lối khác với cách ngài đã quen thuộc hay không?
Dalai Lama:
Làm người tị nạn, thật sự là một tình thế nguy hiểm và tuyệt
vọng. Lúc đó mọi người phải đối phó với thực tại. Đó không
phải là lúc vờ cho rằng mọi việc đều tốt đẹp. Và đó là một
điều khó khăn. Người ta cảm thấy mình dấn thân vào thực tại.
Trong thời thanh bình mọi việc đều trôi chảy. Ngay cả khi có
một sự cố nào đó, người ta cũng du di như mọi chuyện đều tốt.
Nhưng trong thời khó khăn thực sự, khi có biến cố lớn, thì
người ta không thể nào cho rằng mọi chuyện đều tốt, phải rạch
ròi tình trạng xấu là xấu. Khi tôi trốn khỏi cung điện mùa
hè Norbulingka thì tình thế thật nguy hiểm. Chúng tôi đã
băng qua gần những doanh trại của quân đội Trung Quốc. Một
trạm kiểm soát nằm ngay trên bờ sông bên kia. Khoảng hai hay
ba tuần trước khi tôi trốn đi, chúng tôi đã có tin tức chắc
chắn là người Trung Quốc đã chuẩn bị đầy đủ để tấn công
chúng tôi. Vấn đề chỉ còn là ngày giờ mà thôi.
John Avedon:
Lúc đó ngài vượt qua sông Kyichu và gặp nhóm du kích quân
Khamba đang đợi ngài ở đó, ngài có giữ quyền lãnh đạo trực
tiếp hay không? Trong cuộc trốn chạy của ngài, ai là người
ra những quyết định?
Dalai Lama:
Ngay khi rời khỏi Lhasa, chúng tôi đã lập một nhóm bên trong,
một ủy ban để thảo luận mọi việc. Tôi và tám người khác.
John Avedon:
Có phải việc làm cho mọi người nhất trí là ý kiến của
ngài?
Dalai Lama:
Đúng. Những người được để lại phía sau ở Lhasa cũng lập một
Ủy Ban Nhân Dân, một hình thức hội đồng cách mạng (revolutionary
council). Tất nhiên đối với Trung Quốc thì đây là ủy ban phản
cách mạng. Trong vòng vài ngày, họ thành lập ủy ban đó, do
nhân dân đề cử và ủy ban này đưa ra mọi quyết định. Tôi đã gởi
một bức thư đến để phê chuẩn ủy ban đó. Trong ủy ban nhỏ--
những người chạy trốn cùng với tôi, mỗi đêm chúng tôi thảo
luận những điểm thực tiễn. Lúc đầu, kế hoạch của chúng tôi
là thiết lập bộ chỉ huy ở miền nam Tây Tạng. Vào ngày 24
tháng tư năm 1959, tôi cũng cho thủ tướng Nehru của Ấn Độ biết
rằng chúng tôi đã thành lập chính phủ lâm thời của Tây Tạng,
chuyển từ Lhasa tới miền nam Tây Tạng. Tôi thông báo điều
này một cách tự nhiên cho thủ tướng. Ông ấy hơi nao núng (cười),
nhưng ông ấy nói “chúng tôi sẽ không công nhận chính phủ
của ngài”. Dù chính phủ này đã được thành lập trong khi
còn bên trong Tây Tạng và lúc đó tôi đã ở bên Ấn Độ rồi.
John Avedon:
Tôi muốn hỏi về việc ngài là hóa thân của Bồ Tát Đại Bi
Quán Thế Âm (Chenrezi/Avalokitesvara). Ngài có cảm nghĩ gì về
điều này?Ngài thừa nhận rõ ràng điều này hay còn có quan điểm
nào khác?
Dalai Lama:
Tôi khó có thể nói một cách xác quyết. Tôi không thể nói
chính xác được, trừ khi tôi ra sức tham thiền, nhập định
quán tưởng về lại cuộc đời của mình trong từng hơi thở một.
Chúng tôi tin có bốn loại tái sinh. Thứ nhất là loại thông
thường, trong đó sinh linh không thể quyết định sự tái sinh
của mình. Loại tái sinh thứ hai là của một vị Phật toàn giác,
chỉ cần hóa hiện một thân vật chất để tiếp tục công việc
giáo hóa chúng sinh. Trong trường hợp này, rõ ràng người ấy
là một vị Phật. Loại tái sinh thứ ba là của một người đã từng
có những thành tựu tâm linh trong quá khứ, có khả năng chọn
lựa, hay ít nhất cũng có thể tác động đến địa điểm và hoàn cảnh
tái sinh. Loại tái sinh thứ tư được gọi là hiển lộ sự gia hộ,
trường hợp này người tái sinh được ban ơn gia hộ vượt ngoài
khả năng thông thường, để làm những việc lợi ích, như giảng
dạy chân lý giải thoát cho người khác. Được tái sinh loại
này là do trong các kiếp quá khứ người đó đã có ý nguyện mạnh
mẽ giúp đỡ chúng sinh. Dù có thể thuộc vào một loại tái sinh
nào đó, nhưng tôi không thể nói chắc là mình thuộc loại nào.
John Avedon:
Về vai trò thực tiễn Quán Thế Âm Bồ Tát mà
ngài đang lãnh nhận, ngài có cảm nghĩ gì? Chỉ có một ít người
đã được xem là thiêng liêng về mặt này hay mặt khác. Sứ mạng
này là một gánh nặng hay là một điều thú vị?
Dalai Lama:
Vai trò này rất hữu ích, vì qua đó tôi có thể mang lại lợi
ích lớn lao cho người khác. Vì vậy mà tôi thích vai trò Quán
Thế Âm, và tôi quen thuộc với vị trí này. Dễ dàng thấy rằng
điều này giúp ích cho nhiều người, và rõ ràng là tôi có nhân
duyên để lãnh nhận vai trò này. Và cũng rõ ràng là có nhân
duyên với nhân dân Tây Tạng nói riêng. Ông hãy xét điều này,
trong những hoàn cảnh từ trước đến nay của chúng tôi, phải
nói là tôi rất may mắn. Tuy nhiên sự may mắn nào cũng phải
có những gốc rễ và lý do của nó. Do tiềm năng của nghiệp lực
cũng như nguyện lực đã giúp tôi đảm đương sứ mạng này. Về
phương diện này, trong cuốn “Nhập Bồ Tát Đạo”(Engaging
in the Bodhisattva Deeds), Luận Sư Shantideva nói: “khi
nào còn trời còn đất và còn luân hồi, tôi nguyện ở lại nơi
này để cứu khổ độ sinh”(as long as space exists, and
so long as there are migrators in cyclic existence, may I
remain – removing their suffering). Tôi có thệ nguyện
như vậy trong cuộc đời này và biết mình đã có ý nguyện ấy
trong những kiếp trước.
John Avedon:
Với mục tiêu bao la như vậy
làm động lực, ngài đối phó như thế nào với những hạn chế
riêng tư, những giới hạn thuộc về con người?
Dalai Lama: Luận
sư Shantideva cũng nói “Nếu Đức Phật toàn giác không thể
làm vừa lòng chúng sinh thì làm sao ta có thể làm được?”(If
the blessed Buddha cannot please all sentient beings, then
how could I). Ngay cả một đấng giác ngộ có trí tuệ và
quyền năng vô hạn và có ý nguyện cứu độ chúng sinh thoát khổ
cũng không thể giải trừ nghiệp cá nhân của mỗi người được.
John Avedon:
Phải chăng điều này đã làm ngài không cả lo khi trông thấy
cảnh khổ của sáu triệu dân Tây Tạng, những người mà ngài có
trách nhiệm trong một chừng mực nào đó?
Dalai Lama: Động
lực của tôi hướng về toàn thể chúng sinh. Tuy nhiên, ở một mặt
khác tôi cũng hướng về những người dân Tây Tạng. Nếu một vấn
đề có thể giải quyết được, có thể sửa đổi được, thì không có
gì phải lo nghĩ. Nếu không thể sửa đổi được thì lo lắng cũng
bằng không. Lo nghĩ không có một chút ích lợi nào cả.
John Avedon:
Nhiều người cũng nói như vậy,
nhưng ít có người nào làm theo. Ngài luôn luôn nghĩ như vậy
hay ngài đã phải học dần dần điều này?
Dalai Lama:
Quan điểm này được phát triển từ sự tu luyện nội tâm. Nói
chung thì sự đau khổ luôn tồn tại. Trong chừng mực nào đó,
người ta phải gặp những nghiệp quả xấu mà mình đã tạo ra
trong quá khứ qua thân, khẩu, ý; mà ngay bản chất của con
người cũng là đau khổ. Theo quan điểm của tôi, không chỉ có
một mà còn có nhiều nhân tố khác nhau tác động. Trên quan điểm
thực thể gây ra đau khổ, thì như tôi đã nói, nếu nó có thể sửa
chữa được thì không việc gì phải lo nghĩ. Nếu không thể sửa
đổi được thì lo nghĩ cũng không ích lợi gì. Trên quan điểm
nhân quả thì đau khổ là hậu quả của ác nghiệp do chính mình
tạo ra trong quá khứ chứ không phải do ai khác. Những nghiệp
xấu này không bao giờ tàn lụi nếu mình không tu tập ngay từ
bây giờ. Ác nghiệp sẽ sinh ra quả xấu nếu mình không dùng
thiện nghiệp để xóa mờ. Người ta không bao giờ gặp những
nghiệp quả báo ứng nào không do chính mình tạo ra. Sau cùng,
về mặt bản chất của khổ đau là do tính chất của năm uẩn tạo
thành, đưa đến sự khổ lụy cho thân và tâm. Năm uẩn, gồm sắc,
thọ, tưởng, hành và thức, là nền móng của đau khổ. Chừng nào
còn có thân năm uẩn thì người ta còn phải chịu đau khổ. Xét
một cách sâu xa thì khi chúng tôi bị mất độc lập và phải sống
ở xứ lạ quê người, chúng tôi chịu những loại khổ đau nào đó,
còn khi chúng tôi trở về Tây Tạng và giành lại nền độc lập tự
chủ thì cũng sẽ có những loại khổ đau khác phát sinh. Bản chất
của đời sống là như vậy. Người ta có thể cho tôi là bi quan,
nhưng tôi không bi quan, mà đây là triết lý hiện thực của Phật
Giáo (Buddhist realism). Giáo lý này giúp chúng tôi đối diện
với mọi hoàn cảnh của kiếp người. Có lần, khi năm mươi ngàn
người thuộc bộ tộc Thích Ca (Sakya) bị giết, Phật Thích Ca
đã không đau khổ, ngài đứng tựa vào một gốc cây và nói rằng
“Hôm nay ta hơi buồn vì năm mươi ngàn người thuộc bộ tộc
của ta bị giết” (I am a little sad today because fifty
thousand of my clans men were killed). Đức Phật đã không
quá xúc động vì sự kiện này. Như vậy đó, ông thấy chứ (cười),
đó là nghiệp quả của họ. Đức Phật không thể làm gì được cho
họ cả. Những ý
nghĩ như vậy làm cho tôi mạnh mẽ hơn và năng động hơn. Đây
không phải là sự quẫn trí hay sự thoái chí khi đối diện với
khổ đau vốn có ở trong bất cứ hoàn cảnh nào.
John Avedon:
Tôi để ý thấy ngài làm vườn và
sửa chữa những đồ điện tử để giải trí?
Dalai Lama: À,
đó là những thú vui của tôi, để giết thời giờ ấy mà (cười).
Khi thấy mình có thể sửa chữa được một món đồ gì đó thì tôi
hài lòng thực sự. Hồi nhỏ tôi đã tháo tung những món đồ ra,
vì tôi tò mò muốn biết những thứ máy móc đó hoạt động ra
sao. Tôi muốn biết ở bên trong cái động cơ có cái gì. Nhưng
bây giờ tôi chỉ tìm cách sửa những cái gì bị hỏng mà thôi.
John Avedon: Thế còn
chuyện làm vườn?
Dalai Lama: Làm vườn ở Dharamsala là chuyện gần như
bất khả. Dù cố gắng cách mấy thì mùa mưa đến mọi thứ cũng
tiêu tan hết. Ông cũng biết đời sống tu sĩ là rất đáng hài
lòng, rất hạnh phúc. Bằng chứng là những người hoàn tục nói
rằng họ luyến tiếc giá trị của đời sống tu hành. Nhiều người
đã nói với tôi rằng nếu không có sự tu hành thì đời sống sẽ
rất khó khăn và phức tạp. Với vợ con, người ta có thể có
hạnh phúc trong một thời gian nào đó. Nhưng về lâu về dài
thì sẽ có những vấn đề tự nhiên xuất hiện. Người ta sẽ bị
mất một nửa sự độc lập và tự do. Nếu khi từ bỏ sự độc lập
của mình để nếm trải sự đời rắc rối mà có một lợi ích hay
một ý nghĩa nào đó thì việc này cũng xứng đáng. Nếu đây là
hoàn cảnh có ích lợi cho người khác thì như vậy cũng tốt. Sự
rắc rối kia trở nên có giá trị, bằng ngược lại thì quả thật
không xứng đáng để theo đuổi.
John Avedon: Nhưng nếu không có cha mẹ
thì sẽ không có chúng ta ở đây để nói chuyện này.
Dalai Lama: Tôi không nói rằng có con cái là điều xấu,
hay mọi người nên đi tu hết. Điều đó là bất khả (cười). Tôi
nghĩ rằng nếu người ta sống một cách đơn giản thì sự thỏa
mãn sẽ xuất hiện. Đơn sơ giản dị là nhân tố quan trọng đưa
đến hạnh phúc của con người. Ít muốn, biết đủ và thỏa mãn
những gì mình đang có, đó là điều quan trọng. Có bốn điều
giúp người ta trở thành một người cao cả, đó là thỏa mãn với
những thực phẩm nào mình có. Thỏa mãn với y phục bằng vải
vụn, hay chấp nhận bất cứ một thứ y phục nào, không muốn
những y phục cầu kỳ hay màu sắc rực rỡ. Thỏa mãn với chỗ ở
và vừa đủ để trú nắng mưa, và sau cùng là hoan hỷ từ bỏ
trạng thái tâm mê muội và gây dựng những trạng thái tâm tỉnh
thức trong thiền định.